Tin tức

Vẫn còn nhiều đất để che phủ cho ngành Logistics của Việt Nam

08/21/2024

 - 

177 views

Các đại biểu tham dự hội nghị Logistics Việt Nam 2023 diễn ra hôm qua tại Hà Nội cho biết, mặc dù toàn ngành đã có sự cải thiện trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để phát triển cơ sở hạ tầng và năng lực logistics của Việt Nam.

Cảng Quốc tế Gemalink trong Quần thể Cảng Cái Mép, nằm ở phía Nam tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ảnh VNA/VNS Hồng Đạt.

HÀ NỘI Mặc dù ngành logistics đã có những cải thiện trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để phát triển cơ sở hạ tầng và năng lực logistics của Việt Nam.

Phát biểu tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết việc phát triển cơ sở hạ tầng logistics của đất nước đã và sẽ tiếp tục là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Nhờ đó, ngành này đã trở thành một trong những ngành tăng trưởng nhanh nhất trong vài thập kỷ qua. Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 quốc gia về phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Số lượng doanh nghiệp logistics trong nước cũng tăng nhanh chóng. Tính đến cuối tháng 9 năm nay, cả nước có hơn 3.000 công ty vận tải và logistics nội địa cùng 25 tập đoàn giao nhận hàng hóa toàn cầu hàng đầu đang hoạt động, cung cấp đủ loại dịch vụ logistics.

Ngành logistics của Việt Nam nằm trong số những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Theo Agility Emerging Markets Logistics Index, Việt Nam đã vươn lên Top 10 toàn cầu vào năm ngoái trong bảng xếp hạng các chỉ số logistics cho các thị trường mới nổi, chứng minh sự thành công của Việt Nam trong việc phát triển chuỗi cung ứng và khả năng thích ứng với sự thay đổi của các công ty sản xuất đa quốc gia lớn trên toàn thế giới.

Bảng xếp hạng này cho thấy tiềm năng của Việt Nam trong việc thu hút các công ty lớn trong ngành, đóng vai trò quan trọng trong tương lai khi Đông Nam Á dự kiến ​​sẽ trở thành một trung tâm sản xuất toàn cầu lớn trong tương lai gần.

Tuy nhiên, các chuyên gia và nhà kinh tế trong ngành từ lâu đã lên tiếng lo ngại về những hạn chế và thiếu sót đang cản trở sự phát triển của ngành, ngăn cản ngành này đạt được tiềm năng đầy đủ của mình, chẳng hạn như quy hoạch kém, kết nối không đầy đủ giữa các vùng và tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề nghiêm trọng.

Ngoài ra, Việt Nam cũng không tránh khỏi căng thẳng địa chính trị và áp lực lạm phát. Khi ngành này bắt đầu quá trình chuyển đổi do những tiến bộ công nghệ, sự phổ biến ngày càng tăng của thương mại điện tử và các sáng kiến ​​xanh của các tập đoàn đa quốc gia lớn trên toàn thế giới giải quyết các vấn đề nêu trên đã trở thành mục tiêu chính của ngành trong những năm tới.

Đông cho biết các mục tiêu phát triển chính của ngành trong tương lai bao gồm cơ sở hạ tầng, công nghệ và nguồn nhân lực.

Về cơ sở hạ tầng, Thứ trưởng chỉ ra rằng đất nước phải nhanh chóng xây dựng các kho bãi có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, quốc lộ và cơ sở sản xuất. Trong khi đó, các công ty logistics của Việt Nam, chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phải tiếp tục phát triển về quy mô, nâng cao hiệu quả và cung cấp các dịch vụ bổ sung để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Một điểm yếu khác là đất nước thiếu lao động có tay nghề, cần phải giải quyết thông qua việc cung cấp đào tạo chính quy và chuyên sâu cho người lao động trong ngành.

“Những hạn chế hiện tại này đặt ra những thách thức đáng kể cho sự phát triển trong tương lai của ngành logistics Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào chúng ta có thể nắm bắt cơ hội để biến logistics thành một ngành kinh tế quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong nước, cạnh tranh quốc tế và theo kịp xu hướng phát triển toàn cầu, tập trung vào logistics xanh và phát triển bền vững”, Đông nói.

Con đường phía trước

Edwin Chee, Tổng giám đốc điều hành của SLP Việt Nam, một công ty cơ sở hạ tầng công nghiệp và logistics có trụ sở tại Đông Nam Á, cho biết cần tập trung vào việc cải thiện mạng lưới đường bộ, đường sắt, hàng không và đường biển hiện có của đất nước.

Ngoài ra, ông cho biết đất nước phải đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi thông minh, trung tâm phân phối và các cơ sở đa chức năng để cho phép vận chuyển hàng hóa hiệu quả hơn. Việc ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới nhất bao gồm Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu và tự động hóa cũng có thể nâng cao đáng kể hiệu quả hoạt động, quản lý hàng tồn kho, tối ưu hóa tuyến đường và dịch vụ khách hàng của ngành.

Để hiện thực hóa các mục tiêu như vậy, Việt Nam nên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ này, thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng hiện đại. Ông kêu gọi chính phủ xem xét đưa ra các ưu đãi đầu tư, giảm thuế để thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào ngành.

Elias Braham, Tổng giám đốc Zim International Shipping, cho biết Việt Nam phải sớm thiết lập các tuyến giao dịch với các thị trường bổ sung bao gồm Úc, Nam Mỹ và các nước Địa Trung Hải, bên cạnh các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ và EU.

Ông cho biết đã đến lúc Việt Nam phát triển các cảng nhỏ hơn để linh hoạt hơn, giảm sự phụ thuộc vào mạng lưới đường bộ và giúp giảm chi phí hậu cần cho doanh nghiệp. Ông kêu gọi chính quyền địa phương hợp tác với các doanh nghiệp hậu cần để tìm ra các giải pháp giúp họ thích ứng và phản ứng nhanh với các diễn biến trên thị trường quốc tế thay vì cách tiếp cận quản lý truyền thống.

Trong khi đó, Mai Hoàng Phương, đồng sáng lập kiêm tổng giám đốc GHN Logistics, cho biết các doanh nghiệp gặp khó khăn khi ở gần các trung tâm đô thị vì ngày càng khó tìm được địa điểm và cơ sở hạ tầng phù hợp.

Mặc dù việc ở gần các thành phố và thị trấn lớn cho phép các doanh nghiệp cắt giảm chi phí hoạt động, nhưng họ phải cân bằng giữa rủi ro và chi phí. Ông cho biết các doanh nghiệp phải tập trung vào việc áp dụng các công nghệ mới nhất để giảm thiểu rủi ro và rút ngắn thời gian vận chuyển, đây là một cuộc chiến quan trọng để giành chiến thắng trong thương mại điện tử.

Nguồn: Vietnam News

Quay lại Tin tức